Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948 Chiến_tranh_Ả_Rập-Israel_1948

Giai đoạn 1: 14 tháng 5 tới 11 tháng 6 năm 1948

Chế độ ủy trị của Anh tại Palestine theo kế hoạch sẽ chấm dứt vào ngày 15 tháng 5, nhưng ban lãnh đạo Do thái, cầm đầu bởi Thủ tướng tương lai David Ben-Gurion, tuyên bố độc lập ngày 14 tháng 5 và được Liên Xô, Mỹ và nhiều nước khác nhanh chóng công nhận ngay sau đó

Trong vòng vài ngày sau, chừng 1.000 quân Liban, 5.000 quân Syria, 5.000 quân Iraq, 10.000 quân Ai Cập tấn công quốc gia Israel non trẻ. Bốn ngàn quân Jordan tấn công "Khu vực phân cách", bao gồm Jerusalem và vùng phụ cận, cũng như các khu vực thuộc về quốc gia Ả rập theo kế hoạch phân chia của Liên hiệp quốc. Họ cũng nhận được hỗ trợ từ các đội quân tình nguyện từ Ả Rập Xê Út, LibyaYemen.

Trong bản điện tín chính thức từ Tổng thư ký liên đoàn Ả rập cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc ngày 15 tháng 5 năm 1948, các quốc gia Ả rập công khai tuyên bố mục tiêu của họ là thiết lập một "quốc gia Palestin thống nhất" thay cho hai quốc gia Do thái và Ả rập như kế hoạch của Liên hiệp quốc. Họ tuyên bố kế hoạch này vô giá trị, vì bị người Ả rập chiếm đa số bác bỏ, đồng thời nhất mực cho là sự vắng mặt chính quyền hợp pháp ở đây khiến cho việc can thiệp quân sự để bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản cho người Ả rập[78].

Israel, Mỹ và Liên Xô lên án các quốc gia Ả rập can thiệp vào Palestine là hành động hiếu chiến bất hợp lệ, trong khi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Trygve Lie gọi đó là "hoạt động hiếu chiến đầu tiên mà thế giới chứng kiến kể từ khi Đại chiến thế giới lần thứ hai kết thúc". Trong khi đó thì Trung Quốc lại ủng hộ phía Ả rập. Cả hai phe tăng cường nhân lực trong những tháng tiếp theo, nhưng Israel giành được ưu thế do việc tổng động viên và phần nào do dòng người tị nạn Do thái tiếp tục đổ về Israel tới 10.000 người mỗi tháng.

Lực lượng Israel năm 1948[79]
Lực lượng ban đầu29.677
4 tháng 640.825
17 tháng 763.586
7 tháng 1088.033
28 tháng 1092.275
2 tháng 12106.900
23 tháng 12107.652
30 tháng 12108.300

Ngày 26 tháng 5 năm 1948, Lực lượng phòng vệ Israel (IDF) được chính thức thành lập; Haganah, Palmach và Irgun giải tán và sáp nhập vào quân đội nhà nước Do thái non trẻ.

Cùng với sự phát triển chiến sự, IDF nỗ lực mở rộng lực lượng lớn mạnh hơn lực lượng Ả rập tham chiến. Tới tháng 7 năm 1948, IDF đã có 63.000 quân, tới đầu mùa xuân năm 1949 là 115.000 quân. Lực lượng Ả rập có khoảng 40.000 quân vào tháng 7 năm 1948, tăng lên 55.000 vào tháng 10 năm 1948, và nhiều hơn một chút vào mùa xuân năm 1949.

Tất cả cơ sở hàng không của người Do thái đều được đặt dưới sự điều khiển của Sherut Avir ("Dịch vụ đường không", hay SA) từ tháng 10 năm 1947. Đoàn bay Galilee được thành lập tại Yavne'el tháng 3 năm 1948 và đoàn bay Negev được thành lập tại Nir-Am tháng 4. Ngày 10 tháng 5, SA đã có 3 phân đội máy bay, bộ chỉ huy không quân, cơ sở bảo dưỡng và hậu cần. Khi giao tranh bùng nổ ngày 15 tháng 5, SA trở thành Không quân Israel -IAF, nhưng trong những tuần đầu của chiến tranh, máy bay Israel[80] bao gồm các phi cơ hạng nhẹ không phải là đối thủ của không quân Ả rập với máy bay T-6, Spitfire, C-47 và Avro Anson. Phần lớn tổn thất của không quân Ả rập là từ cuộc không tập của Ai Cập vào sân bay cũ của người Ramat David[81] gần Haifa ngày 22 tháng 5, với 5 máy bay Spitfire bị bắn rơi. Cũng trong thời kỳ đó, cán cân không lực chuyển về IAF với việc Israel mua được 25 máy bay Avia S-199 từ Tiệp Khắc, tạo nên tình trạng nghịch lý là phi công Israel lái máy bay chế tạo theo nguyên mẫu Đức Bf-109 đối đầu với máy bay Spitfire của Anh do phi công Ai Cập lái. Cuộc không tập đầu tiên vào một thủ đô của người Ả rập diễn ra đêm 31 tháng 5/ngày 1 tháng 6, khi 3 máy bay Israel ném bom Amman[82]. Tới mùa thu năm 1948, IDF giành được quyền làm chủ bầu trời, cũng như chiếm ưu thế áp đảo về hỏa lực và đội phi công dày dặn kinh nghiệm, với rất nhiều người phục vụ trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai[83].

Nhiệm vụ đầu tiên của IDF là chặn quân đội Ả rập, không cho phép họ tàn phá các khu định cư Do thái, cho tới khi quân cứu viện và vũ khí được chuyển đến.

Thủ tướng đầu tiên của Israel Ben Gurion

Các cuộc giao tranh quyết liệt nhất diễn ra ở Jerusalem và trên con đường nối Jerusalem và Tel Aviv, giữa quân Lê Dương Ả rập và lực lượng Israel. Vua Abdullah hạ lệnh cho Glubb Pasha, chỉ huy quân Lê Dương Ả rập tiến vào Jerusalem ngày 17 tháng 5, và các cuộc giao tranh quyết liệt giành giật từng căn nhà diễn ra từ 19 tháng 5 tới 28 tháng 5, với kết quả là quân Lê Dương Ả rập giành được thắng lợi, đánh bật lực lượng Israel khỏi khu Ả rập cũng như khu Do thái ở khu vực Thành phố Cổ. Tất cả dân chúng Do thái ở Thành phố Cổ đều bị quân Jordan trục xuất. Quân Iraq thất bại khi tấn công các khu định cư Do thái (đáng kể nhất là trận đánh tại Mishmar HaEmek), nên chuyển sang phòng thủ quanh Jenin, Nablus, và Tulkarm.

Ngày 24 tháng 5 năm 1948, lực lượng IDF tại Latrun, bao gồm Lữ đoàn bọc thép số 7 và Lữ đoàn Alexandroni tấn công quân Lê Dương Ả rập trong chiến dịch "Bin-Nun A", rồi tới ngày 1 tháng 6, lại tấn công tiếp, nhưng cả hai cuộc tấn công đều thất bại và bị tổn thất nặng nề với 139 người bị giết.

Ở phía bắc, quân Syria có cả xe bọc thép bị chặn đứng ở kibbutz Degania bởi người định cư chỉ có vũ khí hạng nhẹ. Một xe tăng bị đánh bất khiển dụng bởi chai xăng cháy Molotov, tới giờ vẫn còn nằm lại ở kibbutz này. Sau đó, một cuộc pháo kích bởi các cỗ pháo cổ từ thế kỷ XIX khiến cho quân Syria phải tháo lui. Trong những tháng tiếp theo, quân Syria, cũng như dân quân Palestine và quân ALA bị đẩy lùi.

Ở phía nam, quân Ai Cập mở cuộc tấn công và chọc thủng được tuyến phòng thủ của một số kibbutz của người Do thái, nhưng bị tổn thất nặng, và cuối cùng bị chặn lại ở gần Ashdod. Lực lượng vũ trang Israel không những đã bảo toàn được các vùng đất nằm trong tay mình, mà còn mở rộng các lãnh thổ kiểm soát được.

Cuộc ngưng bắn thứ nhất (11 tháng 6 tới 8 tháng 7 năm 1948)

Nhà thương thuyết của Liên hiệp quốc, bá tước Folke Bernadotte, bị ám sát năm 1948

Liên hiệp quốc tuyên bố ngưng bắn ngày 29 tháng 5, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 11 tháng 6 và sẽ kéo dài 28 ngày. Lệnh ngưng bắn được theo dõi bởi nhà thương thuyết của Liên hiệp quốc là bá tước Thụy Điển Folke Bernadotte. Một lệnh cấm vận vũ khí cũng được ban bố với dụng ý không cho phép bên nào được lợi dụng lệnh ngưng bắn. Tới thời gian cuối cuộc ngưng bắn, Bá tước Bernadotte đệ trình kế hoạch phân chia mới, theo đó vùng Galilee sẽ thuộc về người Do thái còn vùng Negev về người Ả rập, nhưng cả hai phe đều bác bỏ kế hoạch này. Ngày 8 tháng 7, ngay trước khi lệnh ngưng bắn hết hiệu lực, tướng Ai cập Naguib cho tái chiến bằng cách tấn công Negba[84].

Giai đoạn hai (8 tháng 7 tới 18 tháng 7 năm 1948)

Trong mười ngày giữa mùa hè năm 1948, giữa hai cuộc ngưng bắn, người Israel tổ chức một loạt chiến dịch tấn công lớn, còn người Ả rập thì quay ra phòng ngự. Chiến dịch Dani là chiến dịch quan trọng nhất, nhằm bảo vệ và mở rộng hành lang nối liền Jerusalem và Tel Aviv bằng cách đánh chiếm các thị trấn dọc theo hàng lang này là Lydda (sau này đổi tên thành Lod) và Ramle. Sau khi các thị trấn này thất thủ, 50.000 cư dân Ả rập bị buộc phải rời bỏ thị trấn, là cuộc chạy tị nạn lớn nhất trong suốt cuộc chiến.

Trong giai đoạn hai của chiến dich, theo kế hoạch người Do thái sẽ đánh chiếm vị trí chiến lược được phòng ngự cẩn mật Latrun, khống chế con đường Tel Aviv-Jerusalem, và thành phố Ramallah, nhưng chiến dịch này thất bại.

Chiến dịch thứ nhì là chiến dịch Dekel nhằm chiến vùng hạ Galilee, bao gồm cả Nazareth. Kế hoạch thứ ba, với lực lượng tham gia ít hơn, là chiến dịch Kedem với mục tiêu đánh chiếm khu Thành cổ Jerusalem.[85].

Chiến dịch Dani

Lod được bảo vệ phần lớn bởi quân đội Jordan, nhưng lực lượng dân quân Palestine và Quân giải phóng Ẩ rập cũng có mặt. Thị trấn bị tấn công từ phía bắc từ hướng Majdal al-Sadiqal-Muzayri'a, và từ phía đông từ hướng Khulda, al-Qubab, JimzuDanyal. Lần đầu tiên trong cuộc chiến, máy bay ném bom được sử dụng để oanh kích thị trấn. Ngày 11 tháng 7 năm 1948 IDF chiếm được thành phố. Ngày hôm sau, đến lượt Ramle cũng rơi vào tay người Israel.

Ngày 15 tháng 716 tháng 7, người Israel tổ chức tấn công vào Latrun nhưng không chiếm được thành phố. Một đơn vị thuộc lữ đoàn Yiftach, trang bị xe bọc thép - trong đó có hai xe tăng Cromwell, liều lĩnh tấn công một lần nữa, nhưng cũng bị thất bại. Mặc dù cuộc ngưng bắn lần thứ nhì bắt đầu từ ngày 18 tháng 7, người Israel tiếp tục nỗ lực nhằm đánh chiếm thành phố cho tới ngày 20 tháng 7.

Chiến dịch Dekel

Trong khi chiến dịch Dani đang diễn ra ở miền trung, thì ở miền bắc chiến dịch Dekel mở màn. Nazareth bị chiếm ngày 16 tháng 7, rồi sau khi cuộc ngưng bắn lần thứ nhì bắt đầu từ 19:00 ngày 18 tháng 7, toàn bộ miền hạ Galilee từ vịnh Haifa cho đến biển Galilee rơi vào tay người Israel.

Chiến dịch Kedem

Theo kế hoạch ban đầu, chiến dịch nhằm chiếm Jerusalem sẽ diễn ra vào ngày 8 tháng 7, ngay sau cuộc ngưng bắn đầu tiên, do lực lượng Irgun và Lehi tiến hành. Tuy nhiên, David Shaltiel trì hoãn chiến dịch, có lẽ vì ông nghi ngờ khả năng họ giành được thắng lợi nếu thiếu sự hỗ trợ từ Haganah, như trận thất bại Deir Yassin.

Lực lượng Irgun được chỉ huy bởi Yehuda Lapidot (Nimrod) được lệnh đột phá từ "Cổng mới", Lehi đột phá qua bức tường kéo dài từ "Cổng mới" đến Cổng Jaffa, còn tiểu đoàn Beit Hiron thì tấn công từ núi Zion.

Trận chiến dự kiến bắt đầu từ ngày lễ Sabbath, lúc 20:00 giờ ngày thứ sáu 16 tháng 7, một ngày trước cuộc ngưng bắn thứ hai. Chiến dịch bị trở ngại ngay từ đầu, và phải hoãn lại, đầu tiên là tới 23:00 giờ, rồi sau đó là nửa đêm. Mãi đến lúc 02:30 sáng trận đánh mới bắt đầu nổ ra. Binh lính của Irgun đột phá được qua Cửa mới, nhưng các cánh quân khác đều không thực hiện được mục tiêu, nên đến 05:45 sáng, Shaltiel hạ lệnh rút lui và ngưng bắn.

Cuộc ngưng bắn thứ hai: 18 tháng 7 tới 15 tháng 10 năm 1948

Tới 19:00 giờ ngày 18 tháng 7, cuộc ngưng bắn thứ hai có hiệu lực sau những nỗ lực ngoại giao căng thẳng của Liên hiệp quốc

Ngày 16 tháng 9, Bá tước Bernadotte đệ trình một bản kế hoạch mới theo đó Jordan sẽ sáp nhập các vùng đất Ả rập bao gồm Negev, al-Ramla, và Lydda. Quốc gia Do thái mới sẽ bao gồm toàn bộ vùng Galilee, Jerusalem sẽ do cộng đồng quốc tế quản lý, và người tị nạn sẽ được hồi hương hoặc được bồi thường. Kế hoạch này lại bị cả hai phe bác bỏ. Ngày hôm sau, Bá tước Bernadotte bị nhóm Lehi ám sát, và phó của ông là Ralph Bunche, người Mỹ, thay thế ông.

Giai đoạn ba (15 tháng 10 năm 1948 tới 20 tháng 7 năm 1949)

Israel tổ chức tấn công

Từ ngày 15 tháng 10 tới ngày 20 tháng 7 Israel mở một loạt chiến dịch tấn công để đẩy lùi các đạo quân Ả rập và củng cố biên giới của Israel.

Các trận đánh tháng 10 năm 1948

Ngày 24 tháng 10, IDF mở chiến dịch Hiram và đánh chiếm toàn bộ vùng Thượng Galilee, đánh quân ALA và quân Liban lùi về Liban. Chiến dịch thành công mỹ mãn, và tới cuối tháng, Israel không những giành được toàn bộ vùng Galilee mà còn tiến sâu vào Liban 5 dặm (8,0 km) tới tận sông Litani.

Ngày 15 tháng 10 IDF mở chiến dịch Yoav ở phía bắc hoang mạc Negev với mục tiêu chia cắt các cánh quân Ai cập dọc theo miền duyên hải và tuyến đường Beersheba-Hebron-Jerusalem, nhằm chiếm lấy toàn bộ vùng Negev. Chỉ huy chiến dịch Yoav là chỉ huy Mặt trận miền nam Yigal Allon. Chiến dịch thành công rực rỡ, đánh tan tác hàng ngũ quân Ai cập, buộc quân Ai cập phải rút khỏi miền bắc Negev, Beersheba và Ashdod. Ngày 22 tháng 10, đặc công của Hải quân Israeli đánh chìm kỳ hạm Ai Cập Amir Faruk.

Ngày 22 tháng 12, IDF đánh lùi các lực lượng Ai Cập còn lại khỏi lãnh thổ Israel với chiến dịch Horev (còn gọi là chiến dịch Ayin). Mục tiêu chiến dịch nhằm giải phóng toàn bộ miền Negev khỏi quân Ai Cập, loại trừ hiểm họa từ phía quân Ai Cập khỏi sườn phía nam Israel và buộc Ai Cập phải chấp nhân một lệnh ngưng bắn một khi toàn bộ hoang mạc Negev đã được giải phóng. Chiến dịch này mang lại thắng lợi quyết định cho Israel, cùng với các cuộc đột kích của Israel vào Nitzanabán đảo Sinai buộc quân đội Ai Cập đang bị vây hãm ở dải Gaza phải chấp thuận rút lui và ngưng bắn. Ngày 7 tháng 1, lệnh tạm ngưng bắn được chấp thuận, quân Israel rút khỏi bán đảo Sinai và dải Gaza do sức ép từ cộng đồng quốc tế.

Ngày 5 tháng 3, chiến dịch Uvda mở màn, tới ngày 10 tháng 3 quân đội Israel đã tiến tới Umm Rashrash (sau này là Eilat) và chiếm được nó mà không phải nổ một phát súng. Các lữ đoàn Negev và Golani tham gia chiến dịch dựng lá cờ Israel tô tạm bằng mực lên để tuyên bố chủ quyền tại Umm Rashrash, đồng thời cũng đánh dấu chiến tranh kết thúc.

Vũ khí

Cả hai bên sử dụng vũ khí tồn kho từ Đại chiến thế giới lần thứ hai. Ai Cập sử dụng một số trang thiết bị của Anh, còn Syria sử dụng loại của Pháp, Israel sử dụng vũ khí của Anh, Tiệp Khắc và Đức[86].

TypeQuân đội Ả rậpIDF
Xe tăngMatilda, Mark IV, R-39, FT-17, R35, Panzer IV(đặt dưới hầm và như ổ hỏa lực cố định bởi quân Ai Cập)Xe tăng Cromwell, H39, Valentines.
APCs/IFVsBritish WW2 Era Trucks, Humber Mk III & IV, Automitrailleuses Dodge of the Bich type, Improvised Armoured Car/Truck, Marmon-Herrington Armoured Car, Universal Carrier, Lloyd Towing CarriersBritish WW2 Era Trucks, Improvised Armoured Car/Truck, White M3A1 Scout Car, Daimler Armoured Car, IHC M14 half-track, M5 half-track, M3 Half-track
Pháo binhMortars, 15 cm sIG33 auf Pz II, 25 mm anti-tank guns on Bren carriers, Improvised self-propelled guns used by Syrians in 1948-49, 65 mm mountain gun on Chenillette Lorraine 38L

2-pounder anti-tank gun, 6-pounder anti-tank gun,

Mortars, converted 19th century museum pieces, 2 inch British mortars 65 mm French Howitzers "Napoleonchiks", 120 mm French mortars, Davidka artillery pieces
Máy baySpitfires, T-6 Texan, C-47 Dakotas, Hawker HurricaneAvro AnsonsSpitfires, Avia S-199, B-17 Flying Fortresses
Vũ khí hạng nhẹSúng trường Lee Enfieldtiểu liên Sten, lựu đạn Mill, súng carbin 98k (mẫu Tiệp Khắc)

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_Ả_Rập-Israel_1948 http://www.allthatremains.com/Maps/IsraeliMilitery... http://www.bartleby.com/67/3770.html http://www.haaretzdaily.com/hasen/pages/ShArt.jhtm... http://www.zionism-israel.com/dic/War_of_Independe... http://www.zionism-israel.com/his/Israel_war_indep... http://www.knesset.gov.il/holidays/eng/independenc... http://www.jafi.org.il/education/100/maps/images/i... http://www.aisisraelstudies.org/2006papers/Gelber%... http://web.archive.org/web/20090709233331/http://w... http://www.dinur.org/resources/resourceCategoryDis...